Việt Nam - Tổ quốc yêu thương. Tình yêu ấy đã thấm vào trong máu thịt và nước mắt của người dân Việt. Chúng ta yêu quê hương đất nước vì những kỷ niệm tuổi thơ, vì lời ru ầu ơ của mẹ, vì những câu chuyện cổ tích của bà…
Chúng ta yêu quê hương hơn, tự hào, trân trọng và kiêu hãnh hơn bởi “Trong từng nắm đất có một phần máu thịt” của biết bao thế hệ cha anh đã chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do dân tộc. Các anh đã ngã xuống để cho hôm nay lớp lớp thế hệ muôn đời sau được đứng lên trong sự tự tin, niềm kiêu hãnh và ngẩng cao đầu nói với năm châu: “Mảnh đất diệu kỳ quê hương tôi đó...”.
Lịch sử của dân tộc VN là lịch sử của những
cuộc kháng chiến trường kỳ và thần thánh. Thế giới công nhận điều đó, dân tộc
VN ghi nhớ và tự hào về điều đó . Ngày 22- 12 -1944 Đội Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân thành lập- đây là tiền thân của QĐNDVN ngày nay.
Đó là một tổ chức mà như Bác Hồ đã khẳng định: “ Quân đội ta trung với Đảng,
hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của tổ quốc, vì XHCN;
nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kể thù nào cũng đánh
thắng”.
Quân đội nhân dân Việt Nam-
Nhân vật chính của lịch sử Việt Nam
hiện đại, cũng trở thành nhân vật chính trong thơ ca. Thơ ca đã bám sát từng
bước đi của lịch sử, lịch sử đã thổi vào thơ ca một luồng gió mát để rồi những
tác phẩm văn chương ra đời. Chính lịch sử là mảnh đất màu mỡ, tươi tốt để thơ
ca nở hoa kết trái. Vì thế hình ảnh các anh bộ đội - với hai cuộc kháng chiến
thần thánh Pháp - Mỹ và cả hình ảnh của các anh sau hòa bình lập
lại, đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho văn học nghệ thuật.Và cũng như
nhiều thể loại khác, thơ ca đã làm hình ảnh các anh sống mãi với thời gian,
chiến công của các anh mãi được ghi lại trong sử sách, mãi trường tồn trong
trái tim dân tộc Việt Nam. Tổ quốc ca ngợi các anh, nhân dân ca ngợi các anh
bằng những lời ca, những vần thơ đẹp nhất, trân trọng nhất:
“
Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng
dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi
không đè nổi vai vươn tới
Lá
ngụy trang reo với gió đèo”
I. PHẦN HÌNH ẢNH CỦA NGƯỜI LÍNH TRONG THỜI KỲ
CHỐNG PHÁP
Các
em thân mến! Ngược dòng lịch sử, theo lời kêu gọi của Đảng- Bác cả nước đứng
lên đánh đuổi thực dân Pháp, cũng từ đây hình ảnh anh bộ đội đẹp biết bao.
Người chiến sĩ ấy mang bản chất tốt đẹp của nhân dân quân đội do Bác
Hồ, vị lãnh tụ kính yêu của nhân dân sáng lập và rèn luyện. Nhân dân Việt
Bắc trong những ngày tiền khởi nghĩa đã gọi bộ đội ấy là : “Bộ đội Cụ Hồ”. Đó
là tên gọi rất đời thường và thiêng liêng mà nhân dân trìu mến, yêu thương,
trân trọng dành tặng cho họ, đã trở thành một định tính mỗi khi nhắc đến, chúng
ta không khỏi trào lên cảm xúc mến yêu, kính trọng, tự hào. Anh bộ đội có khi
hiện lên như chàng dũng sĩ khi hiền hòa, giản dị mà nhân văn biết mấy
:
" Bóng anh đi và vành mũ tai bèo
Của anh đó
Ôi chiếc mũ vải mềm dễ
thương như một bàn tay nhỏ
Chẳng làm đau một chiếc lá trên cành
Sáng trên đầu như một mảnh trời xanh”
Kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Những chiến
sĩ Trung đoàn thủ đô, sau 60 ngày đêm chiến đấu anh dũng cầm chân địch, đã rút
khỏi Hà Nội với niềm tin chiến thắng. Những câu thơ Chính Hữu trong bài “Ngày
về” dẫu mang khẩu khí tráng sĩ của lớp thanh niên học sinh thành
phố nhưng đã phản ánh đúng khí phách hiên ngang và tâm thế tự hào, tin tưởng
của chiến sĩ vệ quốc ngày đó :
“Nhớ
đêm ra đi đất trời bốc lữa
Cả đô
thành nghi ngút khói sau lưng
Những chàng
trai chưa trắng nợ anh hùng
Hồn
phất phơ mười phương cờ đỏ thắm
Rách tả
tơi rồi đôi giày vạn dặm
Bụi
trường chinh phai bạc áo hào hoa.
Bút
pháp lãng mạn trong thơ, về người chiến sĩ vệ quốc còn tiếp tục trong bài
thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng. Nhân vật trữ tình là người
lính xuất thân từ học sinh Hà Nội. Yêu nước, yêu thiên nhiên yêu cái đẹp là chủ
nghĩa yêu nước anh hùng của lớp chiến sĩ ấy. Chính họ là tượng đài của lớp
chiến sĩ trên đường Tây Tiến xưa:
“Tây
Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân
xanh màu lá giữ oai hùm
Mắt
trừng gữi mộng qua biên giới
Đêm mơ
Hà Nội dáng kiều thơm
Rãi rác
biên cương mồ viễn xứ
Chiến
trường đi chẳng tiếc ngày xanh
Chất lãng
mạn của thơ, thể hiện khí phách anh hùng đượm màu sắc ngang tàng của người lính
vệ quốc, là đặc điểm thơ về người lính
trong những năm đầu kháng chiến.
Khác với Quang Dũng, Chính
Hữu một người lính , một nhà thơ biểu hiện một bước chuyển về thơ kháng chiến.
Trong bài “ Đồng chí” hình ảnh người lính hiện lên chân thực giản
dị không cường điệu mà đáng yêu đáng phục:
“Quê hương anh nước mặn
đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh
với tôi đôi người xa lạ
Tự
phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Người lính đã ra đi từ những
miền quê, xuất thân là nông dân vốn rất mộc mạc và chân chất trong đời sống:
“Lũ chúng tôi bọn người tứ xứ
Gặp
nhau hồi chưa biết chữ
Quen từ
thủa một hai
Súng
bắn chưa quen quân sự mươi bài
Lòng
vẫn cười vui kháng chiến”
( Nhớ- Hồng Nguyên )
Phải hiểu tâm
hồn người chiến sĩ nông dân như thế nào thì các nà
thơ mới chọn
được từ và hình ảnh xúc động ấy..
Và rồi họ gắn bó với
nhau trong tình đồng chí, đồng đội keo sơn, họ cùng nhau vượt qua
những khó khăn gian khổ của cuộc đời người lính:
“ Áo anh rách vai’
Quần
tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay “
Những
người lính Cụ Hồ, đi đến đâu cũng được ND tin yêu, đùm bọc và che chở. Tình
quân dân thắm thiết là bản chất của bộ đội nhân dân. Nguyễn Trung Thông ghi lại
trong bài “Bao giờ trở lại”:
Các
anh về mái ấm nhà vui.
Câu
hát tiếng cười rộn ràng xóm nhỏ.
Các
anh về tưng bừng trước ngõ
Ríu
rít đàn em hớn hở theo sau
Mẹ
già bịn rịn áo nâu
Vui
đàn con nhỏ rừng sâu mới về.
Mảnh đất nào họ đến cũng hóa yêu
thương, hóa tâm hồn, bởi các anh để lại tiếng thơm của chiến công, những kỷ
niệm đẹp.
Một phẩm chất đáng quí của anh bộ đội cụ
Hồ thời chống Pháp đó là sự trẻ trung sôi nổi, lòng lạc quan Cách Mạng- sống
giữa sự thiếu thốn vất vã, giữa cảnh khắc nghiệt của chiến trường nhưng sự đáng
yêu, và hồn nhiên lấp lánh, hiển hiện trong họ. Trong chiến tranh, khoảng cách
giữa sự sống và cái chết rất mong manh, nhưng họ vẫn trao nhau mơ ước của tuổi
thanh xuân, chân thật, tinh nghịch rất hồn nhiên và rất yêu đời không kém phần
lãng mạn:
Đằng
nớ vợ chưa đằng nớ
Tớ
còn chờ độc lập
Cả
lũ cười vang bên ruộng bắp
Nhìn
o thôn nữ cuối nương dâu
Có được một tinh thần như
thế, vì anh bộ đội Cụ Hồ chiến đấu có lý tưởng, có mục đích cao
cả: vì dân, vì nước, mà cũng vì nhà, vì mình. Đã tự nguyện hy sinh vì nghĩa lớn
thì há sợ kẻ thù, dù cho chúng sức mạnh gắp trăm lần. Anh bộ đội Cụ Hồ tự tin
bảo thằng giặc:
Thằng
Tây chớ cậy xác dài
Chúng
tao người nhỏ nhưng dai hơn mày
Thằng
Tây chớ cậy béo quay
Mày
thức hai buổi là mày bở hơi!
Thắng giặc chưa phải đã hết.
Hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ còn lừng lững giữa trời xanh với một tinh thần cao
thượng và lòng nhân ái hiếm có, được hun đúc từ trong truyền thống của dân tộc:
"Đánh kẻ chạy đi chớ không ai đánh người chạy lại". Hàng vạn tù binh
Pháp lũ lượt giơ tay xin hàng sau khi thất thủ ở Điện Biên Phủ. Một khi giặc đã
hàng thì các anh bộ đội Cụ Hồ lại rất khoan dung:
Đã đánh
là đánh cho tan
Giặc
chống ta giết, giặc hàng ta nuôi…
Một quan điểm rất rõ ràng và
rất dân tộc. Hình
tượng anh bộ đội Cụ Hồ sáng rực lòng yêu nước, thể hiện chủ nghĩa anh hùng cách
mạng, và lòng nhân ái dân tộc sâu xa, kết tinh từ truyền thống ngàn đời của dân tộc. Chính sức
mạnh lòng yêu nước,ý chí căm thù,sức mạnh của quân đội NDVN đã làm nên:
Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng.
Bài thơ “Hoan hô chiến sĩ
Điện Biên” đã khép lại một chương thơ kháng chiến chống Pháp về người chiến sĩ
vệ quốc, mở ra giai đoạn thơ ca mới. Trong đó hình ảnh người chiến sĩ vẫn là
lớn nhất sáng chói nhất, hình ảnh chiến sĩ quân đội nhân dân trong công cuộc
XD&BV miền Bắc, giải phóng miền Nam.
II. PHẦN HÌNH ẢNH CỦA
NGƯỜI LÍNH TRONG THỜI KỲ CHỐNG MỸ
Nước Việt Nam chúng ta
chưa chữa lành vết thương của cuộc kháng chiến chống Pháp thì đế Quốc Mỹ
đã nhảy vào Miền Nam. Đất mẹ một lần nữa lại oằn mình hứng chịu biết bao
nỗi đau thương, vết thương cũ chưa lành miệng nay đã lại rỉ
máu. Đúng vậy, “Đường giải phóng mới đi một nữa – Nữa
mình còn trong lữa nước sôi”. Ta chưa viết kịp “Bình Ngô Đại cáo” cho xứng
tầm với chiến công vang dội khắp địa cầu - Điện Biên Phủ thì
phải viết tiếp bài ca chống Mỹ, dài hơn, khó hơn, nhiều máu và nước mắt hơn,
một cuộc đụng đầu lịch sử giữa một dân tộc ngoan cường đấu tranh cho độc lập,
tự do thống nhất và tên đế quốc đầu sỏ hùng mạnh nhất, tàn bạo nhất, xảo quyệt
nhất của thế kỷ. Và thế là các anh xốc súng, vác ba lô lên đường. Phát huy
tinh thần anh bộ đội cụ Hồ thời kỳ chống Pháp - Người lính thời đại chống Mỹ
lại sục sôi:
Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phới phới dậy tương lai.
Trong những năm tháng đánh Mỹ con đường
huyền thoại Trường Sơn chịu nhiều ác liệt. Có lẽ không có tấc đất nào không bị
cày xới, không một cành cây nào không bị thương. Đường nham nhở hố bom. Trên
những con đường ấy, bao cô gái thanh niên xung phong, cô gái mở đường đã “lấy
tình yêu của mình làm ngọn lữa / Đánh lạc hướng quân thù hứng lấy luồng
bom” Thế nên, bom B52 của Mỹ không thắng nổi - họ phá bom mở
đường để cho từng đoàn xe nối nhau ra mặt trận, chi viện cho chiến trường
miền Nam.
Thật
đúng như vậy các em ạ! Hình tượng người chiến sĩ Quân đội nhân dân
Việt Nam là một trong những hình tượng đẹp nhất trong văn học. Từ hình ảnh
người chiến sĩ Vệ quốc thời chống Pháp, họ in đậm thêm những nét chung cao đẹp,
đồng thời ánh lên nét phong phú và độc đáo. Lý tưởng của người lính chống Mỹ
cứu nước vẫn là lý tưởng độc lập tự do. Lý tưởng đó gắn với ý thức giai cấp,
đó chính là lý tưởng CNXH. Lý tưởng cách mạng gắn với nhận thức về sứ mệnh
trọng đại của dân tộc, trong cuộc đấu tranh của loài người. Cùng với sự đi lên
của dân tộc và nhân loại. Người lính chống Mỹ mang khí phách của thời đại. Anh
giải phóng quân là hiện thân của lý tưởng đó, khí phách đó được nhà thơ Tố
Hữu ca ngợi qua những câu thơ:
Hoan hô anh giải phóng quân
Kính chào anh con người đẹp nhất
Lịch sử hôn anh chàng trai chân đất
Sống hiên ngang bất khuất trên đời
Như Thạch Sanh của thế kỷ 20
Một dây ná, một cây chông cũng tấn công giặc Mỹ.
Phẩm
chất cao đẹp, ấn tượng mạnh mẽ nhất của anh giải phóng quân là chiến đấu hy
sinh anh dũng vì sự nghiệp giải phóng đất nước. Họ coi sự hy sinh cho dân tộc
là hạnh phúc thiêng liêng cao cả. Trong bài thơ “Quê hương” Giang
Nam đã viết:
Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm
Có những ngày trốn học bị đòn roi
Nay yêu quê hương trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi.
Hình
tượng người chiến sĩ trong thơ chống Mỹ cứu nước, có những nét riêng tư của con
người, của nhân vật trử tình, đậm cá tính sáng tạo. Ta hãy nghe nhà thơ cũng là
người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn, Phạm Tiến Duật thổ lộ: “Trường
Sơn Tây anh đi thương em bên ấy mưa nhiều con đường mà gánh gạo. Anh lên
xe trời đổ cơn mưa, cái gạt nước xua đi nỗi nhớ, em xuống núi nắng
về rực rỡ, cái nhành cây gạt mối riêng tư.”
Cái nhớ của người anh hùng
rất lính, rất xế, “Cái vết thương xoàng mà sao đi viện/ Hàng còn đó -bánh xe
reo / Nằm ngửa nhớ trăng, năm nghiêng nhớ bến / Nôn nao ngồi dậy nhớ lưng đèo”.
Cái ngôn ngữ của đời sống có khi thô mộc, nghịch ngợm rất lính nhưng
vẫn rất thơ. Nó chấp nhận văn xuôi, chất khẩu ngữ, nó
chống lại mọi thứ chải mượt thơ mà tăng thêm sức chứa thông tin và thẩm mỹ thơ:
“Bài thơ về tiêu đội xe không kính” là một điển hình:
“Không
có kính không phải vì xe không có kính
Bom
giật bom rung kính vỡ đi rồi
...Không
có kính ừ thì có bụi
Bụi
phun tóc trắng như người già
Chưa
cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn
nhau mặt lấm cười ha ha...”
Bằng chính tiếng nói của đời
sống, bằng ngôn ngữ của người trong cuộc nhà thơ đã đưa chất sử thi lan thấm
vào đời lính.
Cuộc tổng tiến công nỗi dậy màu xuân năm
1975 chuyển đất vang trời. Các anh lao vào sào huyệt cuối cùng của Mỹ - Ngụy với
khẩu hiệu: “Thần tốc – táo bạo - bất ngờ - chiến thắng”. Chiến công của
các anh như măng mọc mùa xuân. Nhưng các anh đâu phải là thiên thần, mà chỉ là
những con người bình dị với đôi dép lốp, chiếc mũ tai bèo. Chính sức mạnh của
Chủ nghĩa anh hùng cách mạng các anh làm nên chiến thắng ngang tầm với Phù
Đổng. 11h 30 phút ngày 30/4 /1975. Phút giây đi vào lịch sử! Cái giây phút
mà ta đã chờ đợi 21 năm kháng chiến chống Mỹ, 30 năm kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ, 117 năm từ năm 1858 Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng. Và
ngày đó chiếc kèn đồng lớn trong dàn nhạc giao hưởng thơ ca cách mạng Việt Nam
–Tố Hữu - đã lĩnh tấu bản nhạc khải hoàn của dân tộc với hai khúc ca “Toàn
thắng về ta” và “Vui thế hôm nay”.
Ô ! buổi trưa nay tuyệt trần nắng đẹp
Bác Hồ ơi! Toàn thắng đã về ta
Chúng con đến xanh ngời ánh thép
Thành phố tên Người lộng lẫy cờ hoa .
Trong
phút giây sung sướng ấy, mọi người Việt Nam lúc đó đều cảm nhận Tổ quốc ta đẹp
vô cùng, và yêu tổ quốc ta hơn bao giờ hết:
Ôi! Việt Nam yêu suốt một đời
Nay mới được ôm người trọn vẹn
Hùng vĩ thay toàn thân đất nước
Tựa Trường Sơn vươn tới Trường Sa
Từ Trà Cổ rừng dương, đến Cà Mau rừng đước
Đỏ bình minh mặt sóng khơi xa.
Các
em thân mến! Đúng vậy! Chúng ta thật tự hào là người con của đất nước
Việt Nam xinh đẹp - đất nước Việt Nam anh hùng.
III. PHẦN HÌNH ẢNH CỦA NGƯỜI LÍNH
TRONG THỜI BÌNH
Tổ quốc thống nhất, những
người lính trở về quê hương. Cho dù thời gian vận động theo qui luật nhưng phẩm
chất,ý chí, nghị lực của các anh không hề thay đổi. Hình ảnh anh thợ cắt tóc
trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu là một ví dụ: Anh sống làm việc, lặng lẽ
nghiêm túc bao dung và cao thượng. Những người lính, những thanh niên tri thức
ngày trước từ giả giảng đường đại học, khoác súng lên đường. Hòa bình từ giã
cây súng , anh trở về cầm viên phấn viết tiếp những gì đang còn dang dở, dù một
phần xương thịt của anh đã vĩnh viễn năm lại chiến trường.
Mùa xuân đã trải dài trên
đất nước, đất nước không còn tiếng súng, nhưng các anh – người lính hôm nay vẫn
cầm chắc tay súng, vẫn ngày đêm canh giữ đất trời của tổ quốc.
Như
các em đã biết vị trí địa lý của nước ta thật đặc biệt, để rồi hàng năm, hứng
chịu không biết bao nhiêu trận bão, và những nạn hồng thủy liên tiếp xảy ra.
Nhân dân cần và các anh lại có mặt. Các anh kịp thời ứng cứu , vật lộn với thần
nước , thần gió rồi tiếp tục hy sinh , tiếp tục ngã xuống mang sự bình yên,
hạnh phúc đến cho nhân dân. Cảm ơn các anh! Những gương hy sinh, những tình
cảm, những tấm lòng chân thành, thiết tha và thiêng liêng đó sẽ sống mãi trong
lòng của nhân dân, của những con người hôm nay.
Hiện
nay đất nước ta đang vươn tới một Việt Nam giàu mạnh, hiện đại, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Trên con đường đó, nhất định một ngày chúng ta sẽ xây
dựng khải hoàn môn- Không phải khải hoàn môn bằng đá cẩm thạch hay xi măng cốt
thép. Mà bằng thơ ca như đã làm sau chiến thắng Pháp – Mỹ vừa qua. Một khải
hoàn môn như Tố Hữu đã dự báo:
Tôi lại mơ trên Thái Bình Dương
Tổ
quốc tôi như một thiên thần
Của
muôn triệu anh hùng làm nên cuộc sống
Của
tự do, hy vọng , tình thương.
Người lính
của Quân đội nhân dân, với lý tưởng “ Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” là đề
tài là mạch cảm xúc, là niềm cảm hứng vô tận cho thơ ca. Hình ảnh các anh cùng
với lịch sử chẳng có sách vở nào ghi hết.
Có
lẽ chỉ trong vòng thời gian ngắn ngủi ấy sẽ không đủ để chúng ta nói hết những
vẻ đẹp của người lính cụ Hồ cũng như ngần ấy thời gian không đủ để bày tỏ
hết niềm kính yêu, lòng tự hào, sự ngưỡng vọng và ghi nhớ công ơn của chúng ta
với các anh. Là thế hệ trẻ Hồ Chí Minh thay mặt cho các thầy cô giáo và toàn
thể các em học sinh xin được hứa với thế hệ cha anh sẽ phấn đấu, nỗ lực không
ngừng, nguyện thi đua dạy tốt, học tốt để cùng với thế hệ cha anh viết tiếp
trang sử vàng của dân tộc.
Một
lần nữa xin được kính cẩn nghiêng mình dâng lên linh hồn bao lớp cha anh đã hi
sinh vì Tổ quốc tình cảm trân trọng vô bờ bến.
.