I. Chặng đường lịch sử, chiến công oanh liệt của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước
1. Bối cảnh quốc tế và trong nước
Trên thế giới, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đế quốc Mỹ có tiềm lực rất mạnh, nổi lên cầm đầu phe đế quốc, hiếu chiến và âm mưu bá chủ thế giới, từng bước khẳng định sự có mặt ở Đông Dương. Sau thất bại của thực dân Pháp ở Điện Biên Phủ, chủ nghĩa thực dân cũ sụp đổ, đế quốc Mỹ nhảy vào miền Nam Việt Nam, áp đặt chủ nghĩa thực dân mới, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta. Lúc này trên thế giới đã phân chia thành hai hệ thống đối đầu gay gắt bằng cuộc “chiến tranh lạnh” và chạy đua vũ trang quyết liệt. Hệ thống chủ nghĩa xã hội (XHCN), phong trào công nhân ở các nước tư bản, phong trào giải phóng dân tộc ở khắp nơi trên thế giới dâng cao.
Trong nước, sau chín năm kháng
chiến chống thực dân Pháp, miền Bắc được giải phóng và bước vào thời kỳ xây
dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam vẫn dưới ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay
sai. Đấu đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước trở thành nhiệm vụ thiêng
liêng của toàn dân tộc ta.
2. Những bước phát triển của
cuộc kháng chiến
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước của nhân dân ta trải qua gần 21 năm, là cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ
và nhiều thách thức, ác liệt. Đảng và nhân dân ta phải đấu trí và đấu sức chống
tên đế quốc giàu mạnh và hung bạo nhất trong phe đế quốc. Cuộc kháng chiến này
đã trải qua nhiều giai đoạn, phải đối phó lần lượt với các kế hoạch, chiến lược
của đế quốc Mỹ.
a. Giai đoạn từ tháng 7/1954
đến hết năm 1960: Đấu tranh giữ gìn lực lượng, chuyển dần sang thế tiến công,
làm thất bại bước đầu phương thức chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ.
Những chiến thắng oanh liệt
trong kháng chiến chống thực dân Pháp mà đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ
năm 1954 đã buộc thực dân Pháp và can thiệp Mỹ phải ký Hiệp định Giơnevơ về
chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam và Đông Dương, cam kết tôn
trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Campuchia và Lào.
Nhưng với những mưu đồ đã dự tính từ trước, đế quốc Mỹ trắng trợn phá hoại Hiệp
định Giơnevơ, hất cẳng Pháp, gạt bỏ những thế lực tay sai của Pháp, dựng lên
chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, thực hiện chính sách thực dân mới, mưu đồ
chia cắt lâu dài đất nước ta. Chính quyền Mỹ - Diệm tập trung thực hiện biện
pháp “tố cộng”, “diệt cộng” đàn áp, khủng bố phong trào yêu nước, trả thù
những người kháng chiến cũ, tiêu diệt cơ sở cách mạng ở miền Nam, ban hành Luật
10/59 “đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật”, biến cả miền Nam thành nơi tràn
ngập nhà tù, trại giam, trại tập trung. Cách mạng miền Nam bị dìm trong biển
máu.
Đứng trước tình thế mới, Đảng
và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo quân và dân cả nước thực hiện đồng thời hai
nhiệm vụ chiến lược: Một là cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xây dựng
miền Bắc thành căn cứ vững mạnh của cách mạng cả nước. Hai là cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân ở miền Nam nhằm giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế
quốc Mỹ và tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà. Thực hiện nhiệm vụ trên,
miền Bắc tích cực triển khai những công việc bộn bề sau chiến tranh, nhanh
chóng tổ chức cuộc sống mới. Trong ba năm (1958-1960), chúng ta đã hoàn thành
về cơ bản công cuộc cải tạo XHCN, căn bản xoá bỏ chế độ bóc lột, bước đầu xây
dựng, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội theo con đường đi lên CNXH, chuẩn bị
một số nội dung cho cách mạng cả nước trong giai đoạn mới. Ở miền Nam, cuộc đấu
tranh diễn ra vô cùng khó khăn, ác liệt, nhưng đại bộ phận nhân dân vẫn một
lòng theo Đảng, bất khuất chống áp bức, khủng bố, bảo vệ lực lượng cách mạng.
Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng ra đời, xác định rõ mục tiêu, phương pháp
cách mạng miền Nam, mối quan hệ chiến lược của cách mạng hai miền, giữa cách
mạng Việt Nam và cách mạng thế giới; phản ánh đúng nhu cầu của lịch sử, giải
quyết kịp thời yêu cầu phát triển của cách mạng miền Nam; định hướng và động
viên nhân dân miền Nam vùng lên đấu tranh, tạo ra phong trào Đồng khởi (1959 -
1960), xoay chuyển tình thế cách mạng miền Nam, làm tan rã hàng loạt bộ máy của
ngụy quyền ở các thôn, xã.
b. Giai đoạn từ đầu năm 1961
đến giữa năm 1965: Giữ vững và phát triển thế tiến công, đánh bại chiến lược
“Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ.
Từ cuối năm 1960, đế quốc Mỹ
thay đổi chiến lược, chuyển sang chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” đối phó với
cách mạng miền Nam. Đó là chiến lược dùng quân đội ngụy tay sai làm công cụ
tiến hành chiến tranh, càn quét, dồn dân vào ấp chiến lược, đưa 10 triệu nông
dân miền Nam vào các trại tập trung, tách lực lượng cách mạng ra khỏi nhân dân.
Cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam chuyển sang giai đoạn mới, từ khởi nghĩa
từng phần lên chiến tranh cách mạng, kết hợp song song cả đấu tranh vũ trang và
đấu tranh chính trị, đánh địch bằng cả ba mũi giáp công, trên cả ba vùng chiến
lược, làm phá sản chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ và tay sai. Trên
miền Bắc, các mặt trận kinh tế, văn hoá, an ninh quốc phòng đều có bước phát
triển mới. Quân và dân miền Bắc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, vừa sản
xuất vừa sẵn sàng chiến đấu và chi viện cho miền Nam.
c. Giai đoạn từ giữa năm 1965
đến hết năm 1968: Đảng phát động toàn dân chống Mỹ cứu nước, đánh bại chiến
lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ ở miền Nam, đánh thắng cuộc phá hoại
bằng không quân, hải quân lần thứ nhất ở miền Bắc.
Trước nguy cơ phá sản của
“Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ chuyển sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ”,
sử dụng quân đội Mỹ là lực lượng cơ động chủ yếu tiêu diệt bộ đội chủ lực ta;
dùng ngụy quân, ngụy quyền để bình định, kìm kẹp nhân dân, âm mưu đánh bại cách
mạng miền Nam trong vòng 25 đến 30 tháng (từ giữa 1965 đến hết 1967), đẩy mạnh
chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân.
Trên chiến trường miền Nam,
quân và dân ta đã đánh thắng quân xâm lược Mỹ ngay từ những trận đầu khi chúng
vừa đổ bộ vào. Tiếp theo những trận thắng oanh liệt ở Núi Thành, Vạn Tường,
Plâyme, Đất Cuốc, Bầu Bàng, ta lại đánh bại ba cuộc hành quân lớn của Mỹ vào
miền Đông Nam Bộ, đánh thắng lớn ở các chiến trường Tây Nguyên, miền Tây khu V,
Đường 9, đồng bằng Nam Bộ và các mục tiêu chủ yếu của địch ở các thành phố lớn.
Quân dân miền Bắc tiếp tục đánh trả cuộc tiến công của Mỹ bằng không quân và
hải quân, giành những thắng lợi lớn trên nhiều mặt, bảo đảm giao thông thông
suốt, chi viện sức người, sức của ngày càng lớn cho miền Nam. Cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 đã giáng một đòn quyết định vào chiến
lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến
tranh và ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Hội nghị Pari, đưa cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta bước vào giai đoạn mới.
d. Giai đoạn từ năm 1969 đến
năm 1973: Phát huy sức mạnh liên minh chiến đấu Việt Nam với Lào, Campuchia,
làm thất bại một bước chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, đánh bại cuộc
chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân lần thứ hai ở miền Bắc, tạo thế
mạnh trong đàm phán.
Đế quốc Mỹ thi hành chiến lược
“Việt Nam hoá chiến tranh”, từng bước mở rộng chiến tranh sang Campuchia, Lào.
Thủ đoạn xảo quyệt của Mỹ là thực hiện chiến tranh hủy diệt và chiến tranh
giành dân, chiến tranh bóp nghẹt để làm suy yếu cuộc kháng chiến của nhân dân
ta trên cả hai miền Nam - Bắc. Quân và dân ta phối hợp với quân, dân hai nước
Lào, Campuchia đánh bại một bước quan trọng chiến lược “Việt Nam hoá chiến
tranh”. Những thắng lợi của chiến tranh cách mạng ba nước Đông Dương trong hai
năm 1970-1971 đã tạo thuận lợi cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân
dân ta. Nhờ chuẩn bị tốt lực lượng, nhằm đúng thời cơ, quân và dân ta đã liên
tiếp giành thắng lợi lớn trên chiến trường, nhất là cuộc tiến công chiến lược
năm 1972 và đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai ở miền Bắc, nổi bật
là đánh thắng cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B52 của Mỹ, làm thay đổi
cục diện chiến trường, cục diện chiến tranh. Trong đàm phán, chúng ta cũng khôn
khéo tiến công địch, phối hợp chặt chẽ giữa “đánh và đàm”, buộc Mỹ phải ký Hiệp
định Pari, rút hết quân Mỹ và quân các nước chư hầu ra khỏi miền Nam. So sánh
lực lượng thay đổi hẳn, có lợi cho ta, tạo điều kiện cơ bản nhất để ta giành
thắng lợi cuối cùng.
e. Giai đoạn từ cuối năm 1973
đến ngày 30/4/1975: Tạo thế và lực, tạo thời cơ, kiên quyết tiến hành cuộc Tổng
tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, kết thúc thắng lợi trọn vẹn cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Sau khi ký Hiệp định Pari, mặc
dù buộc phải rút hết quân nhưng đế quốc Mỹ vẫn tiếp tục âm mưu dùng ngụy quân,
ngụy quyền làm công cụ để thực hiện chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam.
Mỹ tăng cường tiền của, vũ khí, phương tiện chiến tranh cho ngụy lấn đất, giành
dân, khống chế nhân dân, thực hiện các hoạt động ngoại giao xảo quyệt để ngăn
chặn sự phát triển của cách mạng miền Nam. Đến tháng 5/1973, xu thế chống phá
Hiệp định Pari của địch ngày càng tăng. Chúng điên cuồng đánh phá hòng xoá bỏ
vùng giải phóng của ta, đẩy lùi lực lượng cách mạng.
Tháng 7/1973, Hội nghị Trung
ương Đảng lần thứ 21 đã khẳng định con đường cách mạng miền Nam vẫn là con
đường bạo lực và đề ra các nhiệm vụ lớn cho hai miền Nam - Bắc. Nửa cuối năm
1974, cuộc chiến tranh của quân và dân ta ở miền Nam chống lại chiến lược “Việt
Nam hoá chiến tranh” đã giành được thắng lợi. Ta ngày càng mạnh lên, ngụy ngày
càng suy yếu rõ rệt. Nước Mỹ lâm vào khủng hoảng nội bộ. Tháng 7/1974, Đảng ta
chỉ đạo Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam xây dựng kế hoạch chiến lược
giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976, nếu thời cơ đến sẽ giải phóng miền
Nam trong năm 1975. Thắng lợi toàn miền, nhất là của miền Đông Nam Bộ, đặc biệt
là chiến thắng Phước Long cuối năm 1974 - đầu năm 1975 càng cho thấy thực tế
suy yếu của quân ngụy Sài Gòn và khả năng Mỹ khó quay lại Việt Nam. Đảng ta
nhận định thời cơ giải phóng hoàn toàn miền Nam đã đến.
Cuộc Tổng tiến công và
nổi dậy mùa Xuân năm 1975 bắt đầu từ ngày 4/3 bằng ba đòn chiến lược: Chiến
dịch Tây Nguyên mở đầu bằng trận đột phá đánh chiếm Buôn Ma Thuột, giải phóng
Tây Nguyên; Chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh giải
phóng Sài Gòn - Gia Định kết thúc vào ngày 30/4. Qua gần 2 tháng chiến đấu với
sức mạnh áp đảo về chính trị và quân sự, quân và dân ta đã giành được toàn
thắng, kết thúc 21 năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.
3. Ý nghĩa lịch sử
- Đối với Việt Nam: Thắng lợi của nhân dân ta
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả vĩ đại nhất của sự
nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh
lãnh đạo; là trang sử hào hùng và chói lọi trên con đường dựng nước và giữ nước
mấy ngàn năm của dân tộc. Nhân dân ta đánh thắng kẻ thù lớn mạnh và hung
hãn nhất của loài người tiến bộ; kết thúc oanh liệt cuộc chiến đấu 30 năm giành
độc lập tự do, thống nhất cho đất nước; chấm dứt ách thống trị hơn một thế kỷ
của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta; đánh dấu bước ngoặt quyết
định trong lịch sử dân tộc, đưa đất nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập tự do, cả
nước đi lên CNXH.
- Đối với thế giới: Thắng lợi của nhân dân ta
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi tiêu biểu của lực lượng
cách mạng thế giới; góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân thế
giới vì mục tiêu độc lập dân tộc, hoà bình, dân chủ và tiến bộ xã hội; cổ vũ,
động viên các dân tộc đang tiến hành công cuộc giải phóng dân tộc, chống chủ
nghĩa đế quốc; mở đầu sự phá sản của chủ nghĩa thực dân mới trên toàn thế giới.
4. Nguyên nhân thắng lợi
Một là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng
Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách
mạng Việt Nam.
Hai là, nhân dân và các lực lượng vũ
trang nhân dân đã phát huy truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng,
một lòng đi theo Đảng, đi theo Bác Hồ, chiến đấu dũng cảm, ngoan cường, bền bỉ,
lao động quên mình vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì CNXH và vì quyền con người.
Ba là, cả nước đoàn kết, thống nhất ý
chí và hành động, trên dưới một lòng, triệu người như một, quyết tâm đánh thắng
giặc Mỹ xâm lược.
Bốn là, kết hợp sức mạnh của dân tộc
với sức mạnh của thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp đánh Mỹ và thắng Mỹ.
Năm là, đoàn kết, liên minh chiến đấu
với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia; đoàn kết quốc tế.
5. Bài học kinh nghiệm
Thứ nhất: Xác định đường lối cách
mạng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với đặc điểm của cách mạng Việt Nam.
Thứ hai: Phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Thứ ba: Vận dụng một cách sáng
tạo, linh hoạt phương pháp đấu tranh cách mạng, phương thức tiến hành chiến
tranh toàn dân và nghệ thuật quân sự chiến tranh toàn dân, xây dựng và phát
triển lý luận chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân Việt Nam.
Thứ tư: Chủ động, nhạy bén, linh
hoạt trong chỉ đạo chiến lược chiến tranh cách mạng và nghệ thuật tạo và nắm
thời cơ giành những thắng lợi quyết định.
Thứ năm: Phải luôn luôn chú trọng xây
dựng Đảng trong mọi hoàn cảnh, nâng cao sức chiến đấu và phát huy hiệu lực lãnh
đạo của Đảng.
II. Phát huy tinh thần cuộc
Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam XHCN
1. Phát huy chủ nghĩa anh hùng
cách mạng trong chiến đấu của Đại thắng mùa Xuân 1975, động viên toàn thể dân
tộc Việt Nam vững bước trên con đường xây dựng đất nước theo mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Lòng yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng được thể hiện trên tất cả các lĩnh
vực, như: đấu tranh trong lĩnh vực tư tưởng bảo vệ Đảng, bảo vệ thành quả cách
mạng, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc và an ninh chính trị, lao động sản xuất,
nghiên cứu, học tập, xả thân cứu dân trong thiên tai, thảm họa, đoàn kết dân
tộc, tương thân tương ái, gìn giữ phát huy bản sắc văn hóa dân tộc …
2. Phát huy cao độ tinh thần
quyết chiến, quyết thắng của Đại thắng mùa Xuân 1975 để vượt qua mọi khó
khăn, thử thách, không
chịu tụt hậu, từng bước tiến kịp thời đại, đưa đất nước phát triển nhanh và bền
vững, có vị thế xứng đáng trên thế giới. Khát vọng đó của dân tộc, cũng thiêng
liêng và mãnh liệt như ý chí giành độc lập, thống nhất Tổ quốc.
3. Phát huy sức mạnh tổng hợp
của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, là động lực chủ yếu, là nhân tố có ý nghĩa
quyết định, bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, sự nghiệp đổi mới. Toàn
dân đoàn kết, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, hoàn cảnh, chung sức, đồng
lòng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
4. Kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường giáo dục giữ
vững tinh thần độc lập, tự chủ, tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân
tộc; phát huy nội lực của đất nước với sự giúp đỡ, hợp tác với các nước, tận
dụng triệt để các nguồn lực trong và ngoài nước; giải quyết hài hòa các nhiệm
vụ đối nội và đối ngoại. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định
cho sự phát triển, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ, nâng cao vị thế đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
5. Giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng
con người mới: Đảng,
Nhà nước và nhân dân đặt niềm tin vào thế hệ trẻ sẽ nối tiếp xứng đáng sự
nghiệp của các thế hệ đi trước trong điều kiện mới, tiến quân vào khoa học và
công nghệ, vươn tới những đỉnh cao của trí tuệ loài người, nâng tầm văn hóa
trong cuộc sống, năng động sáng tạo trong học tập, lao động, kinh doanh, trong
nghiên cứu khoa học, công nghệ và các hoạt động văn hóa, xã hội, trong nhiệm vụ
bảo vệ an ninh và quốc phòng. Thế hệ thanh niên trước đây đã đảm đương xuất sắc
vai trò xung kích trong Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và các
cuộc kháng chiến; ngày nay là lực lượng xung kích, đi đầu trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
6. Phát huy tri thức, kinh
nghiệm quân sự, công tác tư tưởng trong Đại thắng mùa Xuân 1975 vào sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Quốc
phòng vững mạnh sẽ góp phần trực tiếp vào việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn
định chính trị, xã hội, bảo đảm và tạo điều kiện quan trọng cho việc thực hiện
những mục tiêu chiến lược của đất nước. Không ngừng nâng cao chất lượng hiệu
quả của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục quốc phòng - an ninh,
xây dựng ý thức trách nhiệm đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cho
mọi công dân nhằm khơi dậy, phát huy những giá trị truyền thống yêu nước của
dân tộc trong điều kiện lịch sử mới.
Kỷ niệm 45 năm Ngày giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước chính là dịp chúng ta ôn lại những trang sử hào
hùng của dân tộc, nhìn lại chặng đường phấn đấu xây dựng và phát triển đất
nước, đồng thời nhận thức sâu sắc hơn giá trị, những bài học kinh nghiệm được
tổng kết từ trong thực tiễn đấu tranh của dân tộc để tiếp thêm sức mạnh, ý chí
quyết tâm trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
.jpg)