I. CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 - SỰ KIỆN VĨ ĐẠI TRONG LỊCH SỬ DÂN TỘC VIỆT NAM
1. Bối cảnh lịch sử và diễn biến
* Tình hình thế giới: Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn cuối. Hồng quân Xô Viết liên tiếp giành thắng lợi quyết định trên chiến trường châu Âu, giải phóng một loạt nước và tiến thẳng vào sào huyệt phát xít Đức tại Béc-lin. Ngày 9/5/1945, phát xít Đức đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh kết thúc ở Châu Âu. Ngày 8/8/1945, Hồng quân Liên Xô tiến công như vũ bão vào quân đội Nhật. Ngày 14/8/1945, phát xít Nhật đầu hàng vô điều kiện, Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc. Theo thỏa thuận của các nước Đồng minh, sau khi phát xít Nhật đầu hàng, quân đội Anh và Tưởng sẽ vào Đông Dương để giải giáp quân đội Nhật. Trong khi đó, thực dân Pháp lăm le dựa vào Đồng minh hòng khôi phục địa vị thống trị của mình; đế quốc Mỹ đứng sau các thế lực này cũng sẵn sàng can thiệp vào Đông Dương; những phần tử phản động, ngoan cố trong chính quyền tay sai Nhật đang âm mưu thay thầy đổi chủ, chống lại cách mạng.
* Tình
hình trong nước: Trải qua
các cuộc diễn tập, đến năm 1945, phong trào cách mạng dâng cao. Ngày 9/3/1945,
phát xít Nhật làm cuộc đảo chính hất cẳng Pháp. Ngay trong đêm đó, Hội nghị Ban
Thường vụ Trung ương Đảng mở rộng quyết định phát động một cao trào cách mạng
làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa, thay đổi các hình thức tuyên truyền, cổ động,
tổ chức và đấu tranh cho thích hợp. Tháng 3/1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị
“Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Tháng 4/1945, Trung ương
triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, quyết định nhiều vấn đề quan
trọng, thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam giải phóng quân. Ngày
16/4/1945, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị tổ chức các Ủy ban Dân tộc giải phóng
các cấp và chuẩn bị thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam, tức Chính phủ
lâm thời cách mạng Việt Nam.
* Diễn biến: Từ tháng 4/1945 trở đi, cao
trào kháng Nhật cứu nước diễn ra mạnh mẽ, phong phú về nội dung và hình thức.
Đầu tháng 5-1945, Bác Hồ từ Cao Bằng về Tuyên Quang, chọn Tân Trào làm căn cứ
chỉ đạo cách mạng cả nước và chuẩn bị Đại hội quốc dân. Ngày 4/6/1945, Khu giải
phóng Việt Bắc được thành lập, đặt dưới sự lãnh đạo của Ủy ban chỉ huy lâm
thời, trở thành căn cứ địa của cả nước. Tháng 8/1945, Hội nghị đại biểu toàn
quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) khẳng định: “Cơ hội rất tốt cho ta
giành độc lập đã tới” và quyết định phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính
quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương;
đề ra ba nguyên tắc bảo đảm tổng khởi nghĩa thắng lợi, đó là: tập trung, thống
nhất, kịp thời. 23 giờ ngày 13/8/1945, Ủy ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1 hiệu
triệu toàn dân tổng khởi nghĩa. Ngày 16/8/1945, Đại hội Quốc dân họp tại Tân
trào thông qua “10 chính sách lớn của Việt Minh”; thông qua “Lệnh tổng khởi
nghĩa”; quy định quốc kỳ, quốc ca; thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Trung
ương, tức Chính phủ Lâm thời do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Chủ tịch Hồ Chí Minh
gửi thư kêu gọi nhân dân cả nước tổng khởi nghĩa, trong đó chỉ rõ: “Giờ quyết
định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta
mà tự giải phóng cho ta”.
Dưới
sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đồng loạt vùng
dậy, tiến hành tổng khởi nghĩa, giành chính quyền. Từ ngày 14 đến ngày
18/8/1945, cuộc tổng khởi nghĩa nổ ra giành được thắng lợi ở nông thôn đồng
bằng Bắc Bộ, đại bộ phận miền Trung, một phần miền Nam và ở các thị xã: Bắc
Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Hội An, Quảng Nam... Ngày 19/8/1945, khởi nghĩa
giành chính quyền thắng lợi ở Hà Nội. Ngày 23/8/1945, khởi nghĩa thắng lợi ở
Huế và ở Bắc Cạn, Hòa Bình, Hải Phòng, Hà Đông, Quảng Bình, Quảng Trị, Bình
Định, Gia Lai, Bạc Liêu... Ngày 25/8/1945, khởi nghĩa thắng lợi ở Sài Gòn - Gia
Định, Kon Tum, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh, Biên Hòa, Tây Ninh, Bến Tre... Ở
Côn Đảo, Đảng bộ nhà tù Côn Đảo đã lãnh đạo các chiến sĩ cách mạng bị giam cầm
nổi dậy giành chính quyền. Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8/1945, cuộc
tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn, chính quyền trong cả nước về tay
nhân dân.
Ngày
2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), trước cuộc mít tinh của gần một
triệu đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời trịnh trọng
đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa ra đời (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Từ đó,
ngày 2/9 là Ngày Quốc khánh của nước ta.
2. Nguyên nhân thắng lợi
-
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công mau lẹ do nhiều nguyên nhân, trong đó,
nguyên nhân quan trọng, có ý nghĩa quyết định là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng
suốt, khéo léo của Đảng; là sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trong
điều kiện cụ thể của nước ta một cách đúng đắn, độc lập, tự chủ và sáng tạo.
Đảng có phương pháp, chiến lược, chiến thuật cách mạng phù hợp, linh hoạt; nhận
thức được thời cơ, chủ động đón thời cơ và kiên quyết chớp thời cơ, tiến hành
tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
-
Cách mạng Tháng Tám thành công là do tinh thần yêu nước, đoàn kết, ý chí quật
cường của các tầng lớp nhân dân ta, không chịu sống mãi kiếp nô lệ của người
dân mất nước; một lòng đi theo Đảng và được Đảng lãnh đạo qua các cuộc tổng
diễn tập, đã quyết vùng lên giành độc lập cho dân tộc. Trải qua 15 năm đấu
tranh cực kỳ gian khổ và anh dũng dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã có biết bao
đồng bào, chiến sĩ đã không hề tiếc máu xương, hy sinh oanh liệt vì mục tiêu
độc lập dân tộc.
-
Cách mạng Tháng Tám được tiến hành trong bối cảnh quốc tế có những thuận lợi
nhất định. Chủ nghĩa phát xít Đức, Ý, Nhật đã bị đánh bại, phong trào đấu tranh
giải phóng của các dân tộc bị áp bức và của các lực lượng tiến bộ trên thế giới
phát triển mạnh.
3. Ý nghĩa lịch sử
-
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi to lớn đầu tiên của nhân
dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc
Việt Nam. Chính quyền về tay nhân dân, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời -
Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á; chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến ở
Việt Nam; kết thúc hơn hơn 80 năm nhân dân ta dưới ách đô hộ của thực dân, phát
xít. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người dân một nước độc lập,
làm chủ vận mệnh của mình. Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến
trở thành một nước độc lập, tự do và dân chủ. Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành
một Đảng cầm quyền. Từ đây, đất nước, xã hội, dân tộc và con người Việt Nam
bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội.
-
Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin được vận dụng sáng tạo
vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam; là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí
Minh và đường lối cách mạng của Đảng ta gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã
hội, gắn sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; là sự thể nghiệm thành công
đầu tiên chủ nghĩa Mác-Lênin tại một nước thuộc địa ở châu Á. Đây còn là quá
trình phát triển tất yếu của lịch sử dân tộc trải qua mấy nghìn năm phấn đấu,
đỉnh cao của ý chí quật cường, sức mạnh cố kết cộng đồng, tầm cao trí tuệ của
dân tộc hòa quyện với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với xu thế của
thời đại vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội, vì độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội.
-
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám cổ vũ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc
ở các nước bị chủ nghĩa đế quốc thực dân áp bức, thống trị. Nó khẳng định rằng,
trong điều kiện trào lưu của cách mạng vô sản, cuộc cách mạng do một đảng của
giai cấp công nhân lãnh đạo không chỉ có thể thành công ở một nước tư bản kém
phát triển, nơi mắt xích yếu nhất của chủ nghĩa đế quốc mà còn có thể thành
công ở ngay một nước thuộc địa nửa phong kiến lạc hậu để đưa cả dân tộc đó đi
lên theo con đường của chủ nghĩa xã hội.
4. Một số bài học kinh nghiệm
Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 để lại nhiều bài học quý báu, nổi bật là:
Bài học thứ nhất là, có một đảng tiên phong thật sự
cách mạng, tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, được tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng đã
nắm vững hoàn cảnh cụ thể của mỗi giai đoạn lịch sử, đề ra đường lối cách mạng
đúng đắn, có phương pháp và hình thức đấu tranh phù hợp; biết nắm bắt thời cơ,
xây dựng lực lượng và tổ chức, sử dụng lực lượng; phát huy được sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại để dẫn dắt quần chúng đứng lên giành và giữ chính
quyền.
Bài học thứ hai là, vấn đề giành và giữ chính
quyền. Đảng ta đã biết chăm lo xây dựng lực lượng cách mạng, làm cho lực lượng
cách mạng đủ mạnh, thu hút được đông đảo quần chúng tham gia, từ đó làm thay
đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch, tạo ra thời cơ cách mạng để đưa cuộc
cách mạng đến thành công. Để giữ vững chính quyền, Đảng và Nhà nước ta đã dựa
chắc vào nhân dân, tạo nên sức mạnh vật chất và tinh thần để đấu tranh thắng
lợi với thù trong giặc ngoài. Đảng ta biết kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và
sử dụng bạo lực cách mạng thích hợp và đúng lúc để đập tan bộ máy nhà nước cũ,
lập ra nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Bài học thứ ba là, vấn đề nắm bắt được thời cơ, đề
ra được những quyết định chính xác và kịp thời. Nghệ thuật chỉ đạo tài tình của
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc chọn đúng thời cơ, ra quyết định
Tổng khởi nghĩa đúng lúc thể hiện cụ thể trong Chỉ thị của Thường vụ Trung ương
Đảng tháng 3/1945 “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” và bản Quân
lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc phát đi đêm 13/8/1945. Cũng nhờ chọn
đúng thời cơ mà sức mạnh của Nhân dân ta trong Cách mạng Tháng Tám được nhân
lên gấp bội, đã tiến hành tổng khởi nghĩa thành công trong phạm vi cả nước
trong thời gian ngắn.
Bài học thứ tư là, xây
dựng và củng cố lực lượng cách mạng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết của toàn
dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại. Từ khi mới thành lập, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã sớm nhận thức đúng và đầy đủ về sức mạnh to lớn của đông đảo quần
chúng nhân dân, sớm đề ra đường lối chiến lược giương cao hai ngọn cờ độc lập
dân tộc và dân chủ, đáp ứng đúng nguyện vọng của đại đa số nhân dân là độc lập,
tự do, người cày có ruộng. Chính vì thế, Đảng ta đã tập hợp và phát huy được
sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trên nền tảng liên minh công nhân -
nông dân - trí thức, khai thác và phát huy triệt để động lực tinh thần, nêu cao
“ý chí Việt Nam”, tinh thần dũng cảm, sáng tạo, sẵn sàng xông lên cứu nước cứu
nhà, tạo thành nguồn động lực to lớn để đưa Cách mạng Tháng Tám đến thắng lợi
hoàn toàn.
II. THÀNH TỰU 75 NĂM XÂY DỰNG, BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN ĐẤT
NƯỚC
1. Đấu tranh giữ vững chính quyền, bảo
vệ nền độc lập, tự do vừa giành được
Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời đã phải
đương đầu với những khó khăn, thử thách rất nghiêm trọng. Lúc này, chính quyền
nhân dân vừa phải chống giặc xâm lược, vừa phải đối phó với nhiều tổ chức phản
động như “Việt Nam Quốc dân đảng”, “Việt Nam Cách mạng đồng minh hội”, “Đại
Việt”. Cùng với đó là những khó khăn về kinh tế, xã hội cũng là thách thức nặng
nề đối với Đảng ta và chính quyền cách mạng. Nạn đói ở miền Bắc do Nhật, Pháp
gây ra chưa được khắc phục, 50% ruộng đất bị bỏ hoang; công nghiệp đình đốn,
nhiều nhà máy chưa kịp phục hồi được sản xuất; hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng
vọt, ngoại thương đình trệ; tình hình tài chính rất khó khăn, kho bạc chỉ có
1,2 triệu đồng, thuế chưa thu được; 95% dân số không biết chữ, các tệ nạn xã
hội mà chế độ cũ để lại còn rất nặng nề.
Chưa
bao giờ đất nước ta có nhiều kẻ thù đến thế (gần 30 vạn quân chính quy của các
nước Anh, Pháp, Nhật và quân Tưởng đã có mặt trên đất nước ta). Hiểm họa đất
nước như “ngàn cân treo sợi tóc”. Chính quyền nhân dân có nguy cơ bị lật đổ,
nền độc lập mới giành được có thể bị mất. Trước tình thế đó, Đảng ta và
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát huy cao độ sáng tạo, khéo léo, vững tay chèo lái
con thuyền cách mạng Việt Nam, lãnh đạo toàn dân xây dựng và củng cố vững chắc
chính quyền nhân dân. Trong đó, chúng ta đã tổ chức thành công cuộc Tổng tuyển
cử đầu tiên vào ngày 6/1/1946. Đảng và Chính phủ đã ra sức chăm lo xây dựng chế
độ mới; chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm; kiên quyết trấn áp các thế
lực phản động, bảo vệ chính quyền và thành quả Cách mạng Tháng Tám.
2. Giành thắng lợi vĩ đại trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc, thống nhất đất nước
Dưới
sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hiện đường lối kháng chiến
toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, với vũ khí thô sơ và
tinh thần “quyết tử để cho Tổ quốc quyết sinh”, quân và dân ta đã lần lượt đánh
bại các chiến lược quân sự của thực dân Pháp. Chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông
(1947), chiến thắng Biên giới (1950), Hòa Bình (1951), Tây Bắc (1952), Thượng
Lào (1953)... đã tạo ra một bước chuyển cơ bản cho cuộc kháng chiến bước vào
giai đoạn mới, giai đoạn ta nắm quyền chủ động chiến lược trên chiến trường
chính Bắc Bộ, chuyển sang liên tục tiến công và phản công địch. Cuộc tiến công
chiến lược Đông - Xuân 1953-1954, với đỉnh cao là trận quyết chiến lịch sử Điện
Biên Phủ đã đập tan cố gắng chiến tranh cao nhất của Pháp và Mỹ, kết thúc thắng
lợi cuộc kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp và can thiệp của đế quốc Mỹ
(1945-1954). Hiệp định Giơnevơ ký kết, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng.
Cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, miền Bắc được giải phóng, nhưng đế
quốc Mỹ thực hiện âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, biến nước ta thành thuộc
địa kiểu mới. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã trải qua nhiều giai đoạn,
nhân dân ta phải lần lượt đối phó với các chiến lược chiến tranh tàn bạo, xảo
quyệt của kẻ thù. Đây là cuộc kháng chiến cứu nước dài ngày nhất, ác liệt và
phức tạp nhất trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Nhưng
dưới sự lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn của Đảng, qua 21 năm chiến đấu anh dũng
(1954-1975), chúng ta đã giành thắng lợi vẻ vang.
Đối
với cách mạng ở miền Bắc, Đảng ta chủ trương đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã
hội, nhằm đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho đồng bào miền Bắc và làm hậu
thuẫn cho việc tiếp tục thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền
Nam, đấu tranh thống nhất nước nhà. Quân dân miền Bắc đã đánh thắng hai cuộc
chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của đế quốc Mỹ, điển hình là
chiến thắng lịch sử “Điện
Biên Phủ trên không” trên bầu trời Hà Nội cuối năm 1972.
Cùng với thắng lợi trên chiến trường miền Nam đã buộc đế quốc Mỹ
phải ký kết “Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt
Nam” (ngày 27/1/1973). Hiệp định Pari đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đấu tranh
cách mạng của quân và dân ta, đã hoàn thành giai đoạn “đánh cho Mỹ cút”, tiến
tới “đánh cho ngụy nhào”.
Đối
với cách mạng ở miền Nam, với sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Đảng, quân và
dân ta đã vượt lên mọi khó khăn gian khổ ky sinh, bền bỉ và anh dũng chiến đấu,
lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. Trong
giai đoạn từ tháng 7/1954 đến hết năm 1960, ta đã đánh bại chiến lược “Chiến tranh đơn phương”
của Mỹ - ngụy, đưa cách mạng từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công. Giai
đoạn từ năm 1961 đến giữa năm 1965, đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của
đế quốc Mỹ, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta bước
sang một giai đoạn mới. Giai đoạn từ giữa năm 1965 đến hết năm 1968, đánh bại
chiến lược “Chiến tranh cục
bộ” của Mỹ và quân chư hầu, buộc Mỹ phải bắt đầu quá trình xuống
thang chiến tranh, rút dần quân Mỹ về nước; chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán với
ta tại Hội nghị Pari. Giai đoạn từ năm 1969 đến năm 1975, đánh bại chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”
của Mỹ và tay sai, mà đỉnh cao là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975
với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đập tan toàn bộ chính quyền ngụy, buộc
chúng phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, kết thúc thắng lợi trọn vẹn cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất
nước; đưa dân tộc ta bước vào kỷ nguyên độc lập, thống nhất, cả nước đi lên chủ
nghĩa xã hội.
3. Thống nhất thể chế và hệ thống chính trị trên cả nước; khắc
phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế và cải tạo xã hội chủ
nghĩa; đánh thắng cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và cuộc chiến
đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế ở
Campuchia
Để xây dựng và phát triển đất nước, phải sớm hoàn thành thống nhất về mặt Nhà
nước. Hội nghị lần
thứ 24, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa III (9/1975) đã
họp để quyết định những nhiệm vụ của cách mạng trong giai đoạn mới, cả nước đi
lên chủ nghĩa xã hội.
Ngày 3/1/1976, Bộ Chính trị đã ra chỉ thị về việc lãnh đạo cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của
cả nước và giao trách nhiệm cho các cấp uỷ lãnh đạo cuộc bầu cử. Ngày
25/4/1976, cử tri cả nước phấn khởi đi bỏ phiếu (đạt tỷ lệ 98,77%); 492 đại
biểu đã được bầu vào Quốc hội gồm đủ các thành phần công nhân, nông dân, trí
thức, lực lượng vũ trang, đại biểu các tầng lớp thanh niên, phụ nữ, đại biểu
các dân tộc thiểu số và các tôn giáo.
Tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa VI (từ ngày 24/6 đến ngày 3/7/1976), Quốc
hội quyết định lấy tên nước ta là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (từ
2/7/1976), quy định Quốc
kỳ, Quốc huy, Quốc ca; quyết định Hà Nội là Thủ đô của nước ta và chính thức
đổi tên thành phố Sài Gòn - Gia Định là Thành phố Hồ Chí Minh; thành
lập Uỷ ban dự thảo Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam… Theo chủ
trương của Đảng, tháng 6/1976, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức quần chúng thanh
niên, phụ nữ, công đoàn cũng họp Hội nghị hợp nhất, thống nhất cơ quan lãnh đạo
trong toàn quốc.
Sau chiến thắng 30/4/1975, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhân dân cả nước đã bắt
tay ngay vào thực hiện nhiệm vụ khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh
tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa. Thực hiện Kế hoạch 5 năm (1976-1980) trong hoàn
cảnh khó khăn nhưng Nhân dân ta đã vượt qua và đạt được một số thành tựu quan
trọng. Năng lực sản xuất của các ngành kinh tế được tăng cường một bước. Sự
nghiệp giáo dục tiếp tục phát triển. Nạn mù chữ trong vùng mới giải phóng về cơ
bản đã được thanh toán. Công cuộc xây dựng nền văn hoá mới được triển khai
trong cả nước; các tỉnh miền Nam đã làm nhiều việc để loại trừ văn hoá phản
động, lạc hậu, đồi trụy do chế độ cũ để lại. Sự nghiệp văn học, nghệ thuật đạt
được một số tiến bộ. Công tác y tế, thể dục, thể thao có nhiều cố gắng vươn
lên. Các ngành khoa học, kỹ thuật đã đáp ứng tốt một số yêu cầu của kinh tế và
quốc phòng.
Sau
khi cuộc kháng chiến chống Mỹ của Campuchia giành thắng lợi, trên đất nước Chùa
tháp Campuchia, tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêng Xari đã dựng lên một chế độ
độc tài vô cùng tàn bạo nhằm thực hiện mưu đồ ngông cuồng của chúng. Từ
tháng 4/1977, chúng phát động cuộc chiến tranh xâm lược vùng biên giới Tây Nam
và đến mùa khô năm 1978, chúng đã huy động 19 trong tổng số 20 sư đoàn bộ binh
mở cuộc tiến công trên toàn tuyến biên giới với Việt Nam, gây ra nhiều cuộc
thảm sát dã man đối với nhân dân Việt Nam sống dọc biên giới. Mặc dù hết sức
kiềm chế, nhưng sau nhiều cố gắng ngoại giao không đạt kết quả, chúng ta buộc
phải thực hiện quyền tự vệ chính đáng và đã kiên quyết đánh trả. Ngày
23/12/1978, quân và dân ta trên toàn tuyến biên giới Tây Nam đã mở cuộc phản
công chiến lược, đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của tập đoàn phản động Pôn
Pốt - Iêng Xari, đuổi chúng về bên kia biên giới. Thắng lợi của quân và dân ta
ở biên giới Tây Nam đã tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân Campuchia vùng dậy
chống lại chế độ diệt chủng. Đáp lời kêu gọi khẩn thiết của nhân dân và Mặt
trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, với sự giúp đỡ của Quân tình nguyện
Việt Nam, ngày 7/1/1979, các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia đã thực
hiện cuộc tiến công và nổi dậy mạnh mẽ, đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt -
Iêng Xari, giải phóng thủ đô Phnôm Pênh và phần lớn đất nước, mở đường cho nhân
dân Campuchia hồi sinh, giúp bạn xây dựng lại đất nước.
Trong
thời gian Quân tình nguyện Việt Nam cùng với các lực lượng vũ trang cách mạng
Campuchia đang truy quét tàn quân Khrme Đỏ, ngày 17/2/1979, Trung Quốc đã huy
động 60 vạn quân tiến công trên toàn tuyến biên giới 6 tỉnh phía Bắc nước ta
nhưng bị các lực lượng vũ trang và nhân dân Việt Nam kiên quyết đánh trả.
Trên các hướng, dựa vào thế trận đã chuẩn bị sẵn, các lực lượng vũ trang địa
phương, dân quân tự vệ đã phối hợp với một bộ phận bộ đội chủ lực cùng đồng bào
các dân tộc vùng biên giới đã anh dũng chiến đấu, bảo vệ vững chắc từng tấc đất
thiêng liêng của Tổ quốc. Trước sức chiến đấu mạnh mẽ của quân và dân ta, đồng
thời bị dư luận quốc tế kịch liệt phản đối, từ ngày 6/3/1979, quân Trung Quốc
vừa đánh vừa rút, đến ngày 16/3 kết thúc việc rút quân. Tuy vậy, cuộc chiến đấu
bảo vệ Tổ quốc của quân và dân ta còn tiếp diễn và tình hình biên giới phía Bắc
vẫn căng thẳng kéo dài đến cuối những năm 80 của thế kỷ XX. Trong cuộc chiến
tranh này, nhân dân Việt Nam đã chịu nhiều tổn thất về sinh mạng, tài sản và
tình hữu nghị Việt - Trung bị tổn thương nghiêm trọng.
4. Đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công
cuộc đổi mới, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội
Trên
cơ sở tổng kết thực tiễn, Đảng ta đã khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội VI của Đảng (12/1986) đưa ra
đường lối đổi mới, mở ra bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Qua các kỳ đại hội, từ Đại hội lần thứ VII đến Đại hội
lần thứ XI, Đảng ta luôn khẳng định tiếp tục đổi mới đồng bộ, toàn diện trên
các lĩnh vực với những bước đi, cách làm phù hợp, giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa; khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng
tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Đảng ta không ngừng phát triển
tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, từng bước củng cố và hoàn thiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tích cực, chủ động hội nhập quốc
tế.
Qua gần 35 năm thực hiện (1986-2020), đường lối đổi mới của Đảng đã đi vào cuộc
sống và đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Hệ thống chính trị
từng bước được đổi mới, kiện toàn. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa được đẩy mạnh, hiệu lực, hiệu quả hoạt động được nâng lên.
Nền kinh tế vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, quy mô và tiềm lực được nâng
lên, kinh tế vĩ mô dần ổn định, lạm phát được kiểm soát, duy trì được tốc độ
tăng trưởng khá. Từ chỗ còn thiếu ăn về lương thực, đến năm 1990, chúng ta đã
vươn lên đáp ứng nhu cầu trong nước, có dự trữ và xuất khẩu. Năm 2019 cả nước
xuất khẩu trên 6,3 triệu tấn gạo, góp phần quan trọng ổn định đời sống nhân dân
và cân đối cán cân xuất - nhập khẩu. Năng lực của nhiều ngành kinh tế tăng
mạnh. Kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo. Tiềm năng các thành phần kinh
tế khác được khơi dậy, đem lại sức sống mới cho nền kinh tế. Hàng hoá trên thị
trường dồi dào, đa dạng và lưu thông tương đối thuận lợi. Kinh tế đối ngoại
phát triển mạnh, mở rộng hơn trước về quy mô, hình thức, góp phần quan trọng
vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội.
Theo
Tập đoàn tư vấn chiến lược kinh doanh quốc tế McKinsey công bố, tốc độ tăng
trưởng GDP bình quân trong vòng 20 năm (1996-2016) Việt Nam thuộc các nhóm nước
đạt mức 5% mỗi năm. Năm 2019, GDP nước ta đạt mức tăng trưởng 7,02%. Cơ cấu
kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn sản
xuất với thị trường. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, tăng tỷ trọng các
sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, các sản phẩm có giá trị xuất
khẩu. Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn
nhu cầu của sản xuất và đời sống. Xuất, nhập khẩu không ngừng tăng lên. Từ năm
1986 đến nay, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng đều qua các năm. Hàng hóa
xuất khẩu của Việt Nam đã có mặt ở thị trường trên 200 quốc gia và vùng lãnh
thổ, hầu hết các châu lục. Từ chỗ thường xuyên nhập siêu, Việt Nam đã chuyển
sang cân bằng xuất, nhập khẩu, thậm chí là có xuất siêu. Năm 2019, Việt Nam đã
xuất siêu gần 10 tỷ USD.
Cùng với phát triển kinh tế, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng quan tâm, đầu
tư mọi nguồn lực cho sự phát triển các mặt thuộc lĩnh vực văn hoá - xã hội; có
nhiều chuyển biến trong cải thiện đời sống tinh thần nhân dân. Trong đó, thành
công nổi bật, đầy ấn tượng qua gần 35 năm thực hiện đổi mới là chúng ta đã giải
quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa;
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; các cơ hội phát triển được mở rộng cho
mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư, khuyến khích, phát huy được tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân. Thu nhập bình quân đầu người tính
bằng USD năm 1988 chỉ đạt 86 USD/người/năm, đến năm 2019 đạt 2.800
USD/người/năm, nước ta đã ra khỏi nhóm nước thu thập thấp để trở thành nước
đang phát triển có thu nhập trung bình. Công tác xóa đói giảm nghèo đạt được
kết quả đầy ấn tượng. Tỷ lệ các hộ nghèo cả nước đã giảm từ 58,1% năm 1993
xuống 9,5% năm 2011 và còn dưới 4% năm 2019. Sự nghiệp giáo dục có bước phát
triển mới về quy mô, đa dạng hóa về loại hình trường lớp từ mầm non, tiểu học
đến cao đẳng, đại học. Năm 2000, cả nước đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và
phổ cập giáo dục tiểu học. Chiến lược phát triển giáo dục 2011 - 2020 đã góp
phần đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam. Hoạt động khoa học và công
nghệ có bước tiến mới. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ. Bảo hiểm
y tế được mở rộng; các chỉ số sức khỏe cộng đồng được nâng lên. Chỉ số phát
triển con người (HDI) tăng đều đặn và liên tục suốt mấy thập kỷ qua; với chỉ số
HDI là 0,63 năm 2019, Việt Nam xếp thứ 118 trên tổng số 189 nước, chỉ cần thêm
0,007 điểm để vào nhóm các nước có chỉ số phát triển con người ở mức cao.
Phúc lợi và an sinh xã hội được coi trọng và từng bước mở rộng.
Công tác chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng
được Đảng, Nhà nước và cả xã hội chăm lo. Pháp lệnh quy định Danh hiệu Nhà nước
Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng cùng hệ
thống cơ chế chính sách ưu đãi được ban hành. Phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” đạt
được kết quả lớn, phát huy được sức mạnh của toàn xã hội tham gia công tác
chăm sóc người có công.
Trong
điều kiện quốc tế và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, chúng ta đã bảo vệ
vững chắc chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia, dân tộc;
giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo
vệ nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an
toàn xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân vào sự nghiệp đổi mới. Chúng ta đã
kiên quyết đấu tranh bằng các biện pháp phù hợp, bảo đảm được chủ quyền quốc
gia, biển đảo và giữ vững được hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Chủ
động đấu tranh ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu “diễn biến hòa bình”, hoạt
động phá hoại, gây rối, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, không để bị
động, bất ngờ trước mọi tình huống; bước đầu đối phó có hiệu quả với mối đe dọa
an ninh phi truyền thống, kiềm chế sự gia tăng tội phạm.
Đảng,
Nhà nước, các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị đã thường xuyên làm tốt công
tác tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, trách nhiệm và
nghĩa vụ bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia và kiến thức quốc phòng, an ninh
cho các tầng lớp nhân dân, làm cho nhân dân đồng thuận, tin tưởng, đoàn kết và
không ngừng nâng cao ý thức, trách nhiệm trong xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Nhận thức của các cấp, các ngành, của cán bộ, đảng viên, các tầng
lớp nhân dân về mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; về vị trí, vai trò
của quốc phòng, an ninh trong tình hình mới; về quan hệ đối tác, đối tượng có bước
phát triển. Trong đó, nhận thức về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng
thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân, xây dựng lực lượng
vũ trang nhân dân, ngày càng đầy đủ, sâu sắc hơn.
Những
chủ trương, giải pháp trong chiến lược quốc phòng, quân sự, chiến lược an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện. Thế trận
quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân tiếp tục được tăng cường, củng
cố, nhất là trên các địa bàn chiến lược quan trọng; xây dựng khu vực phòng thủ
tỉnh, thành phố ngày càng vững mạnh; xây dựng thế trận lòng dân vững chắc trong
thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên
nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt
đẹp. Sức mạnh về mọi mặt của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân được tăng
cường; xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, dân quân tự vệ rộng khắp,
sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống. Kết hợp có hiệu quả
giữa nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa; giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh, đối ngoại và ngược lại.
Chúng ta đã phá vỡ thế bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa
phương hoá, đa dạng hoá; chủ động tích cực hội nhập quốc tế, là bạn, là đối tác
tin cậy, là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, vì hòa bình, hợp
tác và phát triển. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với trên 185 nước
trên thế giới; trong đó Việt Nam đã thiết lập quan hệ Đối tác Chiến lược toàn
diện với 3 quốc gia, Đối tác Chiến lược 13 quốc gia và Đối tác Toàn diện với 13
quốc gia; Việt Nam đã có quan hệ với hầu hết các nước lớn trên thế giới; tham
gia hầu hết các tổ chức quốc tế và thiết chế hợp tác kinh tế đa phương, có vai
trò, tiếng nói quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Chúng ta đã tạo được
khuôn khổ quan hệ hợp tác hữu nghị, ổn định lâu dài và đan xen lợi ích với tất
cả các nước láng giềng, khu vực. Quan hệ với Trung Quốc được bình thường hóa
hoàn toàn và nâng lên tầm cao mới thành hợp tác, đối tác chiến lược toàn diện;
thực hiện theo phương châm 16 chữ “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn
định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần 4 tốt “Láng giềng tốt, bạn bè
tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”. Lần đầu tiên trong lịch sử, hai nước đã ký
Hiệp ước về biên giới trên đất liền, Hiệp định về Phân định vịnh Bắc Bộ, Hiệp
định giải quyết vấn đề lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa
hai nước trong vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá trong vịnh Bắc Bộ. Sau
khi gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông - Nam Á (ASEAN) năm 1995, Việt Nam đã
có nhiều đóng góp tích cực, góp phần vào việc củng cố đoàn kết, duy trì những
nguyên tắc cơ bản, tăng cường hợp tác nội khối, góp phần nâng cao vai trò, vị
trí của của hiệp hội ở khu vực và trên trường quốc tế. Nước ta đã chủ động duy
trì và thúc đẩy quan hệ hữu nghị với các nước bạn bè truyền thống trên nhiều
lĩnh vực, thể hiện tình nghĩa thủy chung, đoàn kết trong chính sách đối ngoại
của Đảng và Nhà nước ta. Nước ta cũng đã bình thường hóa và mở rộng quan hệ hợp
tác cùng có lợi với các nước lớn và trung tâm kinh tế - chính trị lớn trên thế
giới. Đã thiết lập quan hệ ngoại giao và hợp tác trên nhiều lĩnh vực với Hoa Kỳ
trên tinh thần gác lại quá khứ, hướng tới tương lai. Nước ta tiếp tục thúc đẩy
quan hệ hợp tác nhiều mặt với Nhật Bản, Hàn Quốc, Ô-xtrây-li-a, Niu Di-lân, Tây
Bắc Âu… nhất là trên các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư, viện trợ phát
triển, văn hóa, du lịch, chuyển giao công nghệ. Các nước này hiện đã trở thành
những đối tác và thị trường hàng đầu của ta, đẩy mạnh việc hội nhập kinh tế với
khu vực và quốc tế...
Với
những thành tựu nổi bật nêu trên cho thấy, công cuộc đổi mới đã đáp ứng được
những đòi hỏi bức thiết của tình hình nước ta, phù hợp với xu thế phát triển
của thời đại; có ý nghĩa như một cuộc cách mạng trong thời kỳ mới, một sự
nghiệp thật sự sáng tạo của nhân dân ta; khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của
lịch sử.
Kỷ
niệm 75 năm Ngày Cách mạng Tháng Tám (19/8/1945 - 19/8/2020) và Quốc
khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (02/9/1945 - 02/9/2020) trong
bối cảnh toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang thi đua lập thành tích sôi nổi
chào mừng đại hội đảng bộ các cấp hướng tới Đại hội lần thứ XIII của Đảng,
chúng ta càng hiểu rõ giá trị lịch sử, thực tiễn sâu sắc mà cách mạng Tháng Tám
đã mang lại; đề cao lòng tự hào dân tộc, nhận thức đầy đủ trách nhiệm của thế
hệ hôm nay trong việc vận dụng và phát triển những bài học kinh nghiệm quý giá,
nhưng tư tưởng mang tầm thời đại của Cách mạng Tháng Tám vào sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, vào công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và hội nhập quốc tế, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh./.
.jpg)